Xu hướng tình dục là gì?

Xu hướng tình dục là sự hấp dẫn có tính bền vững của một người về phía những người khác giới,cùng giới hoặc cả hai giới.
Nói đến xu hướng tình dục người ta cũng nói đến bản dạng tình dục (sexual identity) là cảm nhận của một người tự xác định về xu hướng tình dục của mình.
Chú thích của người dịch: “Bản dạng tình dục” là một từ chưa phổ biến trong tiếng Việt, dịch từ
“sexual identity” nói đến ý thức của mỗi người về xu hướng tình dục của mình hướng đến người
cùng giới, người khác giới hay cả hai giới. Cách dịch khác thường gặp là “nhân dạng tình dục”,
nhưng “nhân dạng” không thể hiện ý t ự xác định như “bản dạng”.
Nghiên cứu trong vài thập niên vừa qua đã chỉ ra rằng xu hướng tình dục đa dạng, trải từ thái cựchoàn toàn chỉ bị hấp dẫn bởi người khác giới đến thái cực hoàn toàn chỉ bị hấp dẫn bởi người cùng
giới. Tuy vậy, khi nói đến xu hướng tình dục,người ta gom thành ba dạng với ba tên gọi: dị tính
luyến ái (chịu sự hấp dẫn của người khác giới tính), đồng tính luyến ái (chịu sự hấp dẫn của
người cùng giới tính), lưỡng tính luyến ái (chịu sự hấp dẫn của cả nam và nữ).
Sự đa dạng về hấp dẫn tình dục và hành vi tình dục theo giới tính của đối tượng đã được nói đến ở nhiều quốc gia và nền văn hóa trên thế giới.Nhiều nền văn hóa có những từ để mô tả những người thể hiện các xu hướng hấp dẫn này. Ở Hoa Kỳ, các từ thường dùng nhất là lesbian (người nữ đồng tính luyến ái), gay men (người nam đồng tính luyến ái), bisexual (người lưỡng tính luyến ái). Một số người sử dụng những từ khác, hoặc không dùng từ nào cả.
iSEE bổ sung: Ở Việt Nam cũng có nhiều từ ngữ được dùng. Ví dụ đối với nam đồng tính luyến ái có các từ đồng tính nam, gay, bóng, bóng kín, pê-đê, đồng cô (có từ trung tính, có từ miệt thị). Đối
với nữ đồng tính luyến ái có các từ như đồng tính nữ, les, ô-môi.
Xu hướng tình dục là một thành tố trong tổng thể giới tính-tính dục của một con người. Các thành
tố khác bao gồm: giới tính sinh học (biologicalsex) là các đặc điểm giải phẫu, sinh lý, di truyền liên quan của nam và nữ); bản dạng giới (gender identity) là ý thức tâm lý rằng mình là nam hay nữ; vai trò giới có tính xã hội (social gender role) là các khuôn mẫu văn hóa xác định hành vi nữ tính hay nam tính.
Chú thích của người dịch: “Bản dạng giới” dịch từ “gender identity” nói đến ý thức của mỗi người tự
xác định mình thuộc giới nam hay nữ. Bản dạng giới của đa số người ta trùng với giới tính sinh học. Một số ít người có cơ thể nam cảm nhận mình là nữ, một số người có cơ thể nữ cảm nhận mình là nam. Cách dịch khác thường gặp là “nhân dạng giới”, nhưng “nhân dạng” không thể hiện ý tự xác định như “bản dạng”.
Người ta thường nói đến xu hướng tình dục như một đặc điểm cá nhân của một người (cũng như giới tính sinh học, bản dạng giới, hay tuổi). Cách nhìn này có phần khiếm khuyết bởi lẽ xu hướng tình dục của một người được xác định trên cơ sở các mối quan hệ của người đó với người khác, và thể hiện thông qua những hành vi với người khác, đơn giản như cầm tay, hôn... Tóm lại, xu hướng tình dục gắn bó mật thiết với các mối quan hệ của con người mà đáp ứng nhu cầu của con người về tình yêu, sự gắn bó và gần gũi.
(Trích từ BẢN DỊCH ĐÃ ĐƯỢC VIỆT HÓA VÀ CÓ GIẢI THÍCH do iSEE thực hiện, dựa trên nguyên bản của Hội Tâm lý học Hoa Kỳ (năm 2008) với tiêu đề “Answers to Your Questions: For a Better Understanding of Sexual Orientation and Homosexuality” truy cập từ http://www.apa.org/topics/sorientation.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét