MỐI
QUAN HỆ VỚI BẢO KÊ VÀ NGƯỜI DẪN MỐI
Hình ảnh chỉ mang tính chất minh hoạ
Cũng giống với những người chủ tụ
điểm, mối quan hệ giữa các phụ nữ và bảo kê (ma cô) hoặc người dẫn
mối cũng có sự chia sẻ lợi nhuận. Ơ trên đường phố, bảo kê hoặc
người dẫn mối là những người đàn ông cung cấp khách hàng cho NMD và
bảo vệ họ không bị đánh đập bởi côn đồ trên đường phố hoặc những
khách hàng hung bạo. NMD đường phố chỉ có thể làm việc ở một khu
vực nhất định được quy định bởi bảo kê. Nếu họ muốn chuyển tới một
nơi mới, họ phải trả “phí gia nhập” cho bảo kê (30 – 60 đô la Mỹ –
tương đương từ 500.000 đến hơn 1 triệu). Một bảo kê thường quản lý một
số NMD trong cùng một khu vực. Đổi lại, những phụ nữ này trả một
tỉ lệ thu nhập nhất định của họ (thường là 30 – 50%) cho những người
đàn ông này. Việc quan hệ tình dục giữa NMD và những người đàn ông
này cũng xảy ra thường xuyên.
NMD đường phố không phải là những
người duy nhất có quan hệ với bảo kê. Các mối quan hệ tương tự cũng
có thể thấy trong các tụ điểm giải trí tình dục. Một số nam giới
được thuê làm việc trong các tụ điểm này để quản lý NMD. Những
người nam giới này có thể được trả tiền trực tiếp từ phụ nữ hoặc
từ chủ. Các bảo kê thường thể hiện quyền hoặc bạo lực tình dục
nhằm kiểm soát NMD. Một nũ tiếp viên nhà hàng cho biết:
“Bọn bảo kê thường sử dụng quyền lực
để quản lý bọn em. Chúng khinh thường bọn em và đánh đập những
người không tuân theo. Một số chị em còn bị chúng lừa vào con đường
dùng ma túy cho đến khi nghiện ngập. Mối quan hệ của em với bọn ma cô
chỉ tốt đẹp nếu em đưa chúng đủ tiền mà chúng yêu cầu. Đôi khi, bọn
chúng nghi ngờ em giấu tiền và chúng đánh em để lấy tiền của em.
Bọn chúng đòi quan hệ tình dục với bọn em mà không trả tiền và
thường không thích sử dụng bao cao su.” (Hiệp – nữ tiếp viên nhà hàng
20 tuổi)
Một số phụ nữ tìm ra cách để đối
phó với những người này. Ví dụ như họ thỏa hiệp với bảo kê để
tránh phải trả tiền hoặc bị đánh. Những người khác hình thành mối
quan hệ thân thiết với chúng. Môt thợ làm đầu 25 tuổi cho biết rằng:
“Mỗi tuần hoặc 10 ngày, họ (bảo kê/ma cô) đòi
tiền bọn em. Bọn em không thể tránh được vì chúng thường đến rất
bất ngờ. Khi em không có tiền để đưa cho chúng, em nói với chúng rằng
em đang rất khó khăn về tài chính vì em cần tiền để nuôi con. Tiếp
xúc với em thường xuyên, họ dần dần cũng hiểu tình cảnh của em và
chúng không làm gì em cả. Thực ra, một thợ gội đầu ở tuổi em thì
không được coi là trẻ nữa, vì thế giá thường rất rẻ, thu nhập của em
rất thấp. Em nằm trong nhóm những NMD có thu nhập thấp nhất bởi vì
em đang già đi.” (Ngọc – thợ làm đầu 25 tuổi)
Sự cùng tồn tại của NMD và bảo kê
hoặc những người dắt mối là vì lợi nhuận, nhưng các mói quan hệ
mang tính hỗ trợ hầu như không tồn
tại. Ngược lại, các phụ nữ thường là nạn nhân của bạo lực hoặc
lạm dụng bởi chính bảo kê của họ.
MỐI
QUAN HỆ VỚI CÁC NMD KHÁC
Hình ảnh chỉ mang tính chất minh hoạ
Loại hình dịch vụ tình dục và nơi
NMD làm việc xác định mức độ quan hệ giữa các NMD. Gái bao, gái gọi
và gái nhảy thường sống độc lập, ít quan hệ với các NMD khác: “… bọn em làm việc độc lập, không biết
nhiều người khác. Bọn em không liên hệ với bất kì ai” ( Hồng- Gái
nhảy 21 tuổi). Tuy nhiên, NMD đường phố, NMD trong các nhà hàng,
nhân viên mát xa, tiếp viên karaoke và thợ cắt tóc gội đầu thường
hình thành những mối quan hệ với những người cùng làm công việc
này.
Có sự cạnh tranh trong mối quna hệ
giữa NMD đường phố, tiếp viên karaoke, thợ làm đầu và đặc biệt là
những người nghiện ma túy. Một tiếp viên karaoke thừa nhận rằng: “ Trong nghề này, thỉnh thoảng có
những vụ đánh nhau và ganh đua giữa các chị em nhằm chiếm được những
khách hàng hào phóng” ( Thảo- tiếp viên karaoke 24 tuổi). Trong môi
trường cạnh tranh này, sự tương tác hoặc giao tiếp giữa các phụ nữ
rất hạn chế. Họ nói rằng họ không chia sẻ thông tin, không trao đổi ý
kiến về các vấn đề sức khỏe, các bệnh lây lan qua đường tình dục,
HIV/ AIDS hoặc các kinh nghiệm về chăm sóc sức khỏe với những người
cùng làm khác. Một NMD sử dụng ma túy làm việc trong một quán
karaoke tiết lộ:
“ Khi sử dụng ma túy, bọn em thường so sánh điều kiện kinh tế với nhau. Em chưa bao giờ gặp những người ( các NMD khác) thực sự tốt với em. Em chỉ từng gặp những người muốn lợi dụng em khi em có tiền, nếu không thì họ bỏ đi. Vì thế, bây giờ tốt hơn hết là em không quan hệ với một ai nữa” ( Dung- tiếp viên karaoke 24 tuổi).
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa NMD cũng
bao gồm cả tình bạn và hợp tác. Có sự giúp đỡ lẫn nhau, chia sẻ
kinh nghiệm hoặc trao đổi thông tin giữa các phụ nữ về các vấn đề
liên quan đến cuộc sống cá nhân như gia đình, con cái hoặc các kinh
nghiệm chăm sóc sức khỏe:
“ Vào những lúc rảnh, bọn em thường kể về
gia đình và con cái. Bọn em thường hỏi các chị em khác, những người
mà trước đây đã đi khám bệnh ở những nơi mà khám các bệnh lây
truyền qua đường tình dục.” ( Song- nhân viên mát xa 24 tuổi)
Khi được hỏi “ Có sự đoàn kết và chăm sóc giữa các NMD với nhau không?” ,
một tiếp viên karaoke trả lời: “ Khi
mới gặp nhau thì bọn em rất dè dặt. Nhưng sau một thời gian thì bọn
em dần dần trở nên hiểu và thông cảm với nhau hơn” ( Chung- Tiếp viên
karaoke 19 tuổi)
Một số phụ nữ thể hiện tinh thần
cộng đồng mạnh mẽ, thông qua thái độ quan tâm của họ tới NMD hành
nghề ở những nơi khác. Ví dụ như một số nhân viên mát xa cho rằng
công việc của họ “ sạch sẽ hơn”
so với những NMD làm việc trên
đường phố hoặc trong quán karaoke. Được khám sức khỏe thường kì,
những người phụ nữ này tin rằng họ thuộc về một nhóm có đặc quyền
và cao cấp hơn so với những loại NMD khác. Họ nói rằng những dịch
vụ sức khỏe của chương trình phòng chống HIV nên tập trung vào NMD
đường phố hoặc trong các quán karaoke. Một nhân viên mát xa nói rằng :
“…nên đưa hỗ trợ đến những người
phụ nữ khác làm việc trên đừơng
phố , trong nhà hàng hoặc quán karaoke. Công việc của họ” bẩn thỉu”
hơn và vất vả hơn bọn em. Công việc của bọn em sáng sủa và “ ấm áp”
hơn ( Quyên- nhân viên mát xa 21 tuổi)
Nhìn nhận về kỳ thị và thể hiện
bản thân
Những người phụ nữ trong nghiên cứu
này đã thể hiện những suy nghĩ mâu thuẫn liên quan đến nhân dạng cá
nhân của họ. Phần lớn họ cảm thấy hổ thẹn, không ra gì hoặc ngập
tràn tủi nhục. Bị xem là “ gái mại dâm”, họ tự coi mình thấp hèn so
với người khác. Khi được hỏi: “ Chị nghĩ thế nào về bản thân mình?”,
một người phụ nữ đã trả lời : “
…rất tồi tệ, em rất buồn chán bởi có quá nhiều tủi nhục” ( Phong-
tiếp viên karaoke 21 tuổi). Với một số phụ nữ, sự kì thị trong
chính suy nghĩ của họ rất mạnh. Họ sợ phải nhìn thấy người thân của
họ hoặc gặp gỡ những người lạ. Một người làm nghề mát xa 19 tuổi
tâm sự rằng cô đã phải bịt mặt khi đi ra ngoài. Phần lớn nữ mại dâm
chưa lập gia đình thể hiện sự lo lắng sẽ không có người đàn ông nào
muốn cưới họ; họ thậm chí không
có ý định hình thành mối quan hệ
mật thiết nào: “ Làm nghề này, em không muốn làm quen với bất cứ ai hoặc thể
hiện tình yêu của em với bất kì người đàn ông nào” ( Sương- thợ làm
đầu 27 tuổi). Một tiếp viên karaoke nói rằng:
“ Họ ( những người đàn ông) chỉ muốn dành
một chút thời gian với bọn em. Cũng có những người hình như yêu bọn
em, nhưng em không nghĩ là họ muốn cưới một gái mại dâm làm vợ. Rất
nhiều người đàn ông chỉ giả vờ yêu bọn em để quan hệ tình dục mà
không phải trả tiền. Những người đàn ông xin cưới bọn em phần lớn là
không đáng tin cậy- Họ thường nghiên ma túy, thất nghiệp hoặc lười
biếng. Họ đến với bọn em chỉ khi nào họ nghĩ rằng bọn em có nhiều
tiền” ( Miên- tiếp viên karaoke 22 tuổi)
(Hết.)
***Trích từ tài liệu nghiên cứu "ĐỜI SỐNG CỦA NỮ MẠI DÂM Ở VIỆT NAM: CÁC PHÁT HIỆN TỪ MỘT NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH" của Tiến sĩ Ngô Đức Anh***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét